Cùng tìm hiểu chiến thuật trong kinh tế mang tên “shrinkflation”

Cùng tìm hiểu chiến thuật trong kinh tế mang tên “shrinkflation”

Lạm phát co lại là một từ ghép của “co lại” (shrink) và “lạm phát” (inflation) đã trở nên phổ biến trong những năm 1960 và 1970. Làm thế nào chúng ta biết rằng lạm phát đã quay trở lại? Hầu hết các nhà kinh tế tập trung vào các yếu tố trên thị trường như giá cả hàng hóa, tiền lương, hàng hóa và dịch vụ cơ bản. Nhưng lịch sử cho thấy rằng họ nên chú ý đến một yếu tố liên quan thường bị bỏ qua: cái gọi là “sự co lại và mở rộng” hay nói cách khác là “shrinkflation”.

Định nghĩa của thuật ngữ “Shrinkflation”

Định nghĩa Shrinkflation

Shrinkflation là một thuật ngữ ghép bởi hai từ “shrink” (thu nhỏ) và “inflation” (lạm phát). Hành vi này bắt đầu thông dụng vào những năm 1960 và 1970, khi các nhà sản xuất đối mặt với lạm phát leo thang bằng cách thay đổi nội dung mặt hàng thay vì nâng giá.

Ban đầu, hành vi này thu hút được ít sự chú ý, bởi lẽ rất khó để phân biệt được; sự thay đổi giá trên đơn vị hàng hóa nếu như bao bì thay đổi hoàn toàn. Trên thực tế, người đầu tiên cảnh báo về hành vi này là nghệ sĩ châm biếm Art Buchwald. Trong một mục mang tên “Lạm phát đóng hộp” xuất bản vào năm 1969; ông đả kích hành vi che giấu sự tăng giá.

shrinkflation

Một cách khôi hài, ông khen ngợi ngành công nghiệp Mỹ đã “tìm ra cách để thu nhỏ mặt hàng và phóng đại bao bì”. Sự chỉ trích này không xa với thực tế. Khi áp lực lạm phát dần tăng vào những năm 1970; các nhà sản xuất đã không ngần ngại thử nghiệm một số phương pháp để đùn đẩy sự tăng giá lên người tiêu dùng. Một phương pháp trong đó là “thu nhỏ”: cùng bao bì, cùng kích cỡ, nhưng lượng sản phẩm ít hơn.

Phân tích chiến thuật

Ví dụ, vào cuối mùa hè 1974, Woolworth giới thiệu một bộ bút chì với giá 99 cent. Cùng giá với mặt hàng năm trước đó. Nhưng những phóng viên tinh mắt của New York Times; đã phát hiện ra bộ bút chỉ này chỉ gồm 24 cái. Ít hơn 6 cái so với bộ bút chì năm trước đó. Chiến thuật này được thực hiện với cả mặt hàng giấy thủ công; với 24 tờ một bộ thay vì 30 tờ.

Các cửa hàng tạp hóa tạo nên nhiều cơ hội cho chiến thuật thu nhỏ này. Vào đầu thập kỷ, một mặt hàng thực phẩm thiết yếu hậu chiến tranh là Rice-a-Roni được bán trong hộp 8 ounce. Con số này sớm rớt xuống 6.9 ounce. Nhưng bao bì đóng gói vẫn được giữ nguyên. Ngày nay, sản phẩm này vẫn được bán với trọng lượng đó, có vẻ như shrinkflation cũng có giới hạn của nó.

Chiến thuật shrinkflation

Những chiêu trò này ngày càng phổ biến. Từ những can cá ngừ đến lọ sốt spaghetti, tất cả đều dần chứa ngày càng ít sản phẩm. Những nhóm vận động như Consumers’ Union (nay là Consumer Reports) đã lên tiếng chỉ trích, nhưng hành vi này vẫn được áp dụng rộng rãi.

Những nhà sản xuất kẹo cao su có lẽ đã có những chiến thuật shrinkflation trắng trợn nhất. Khi giá đường tăng cao vào những năm 1970, họ không thể tăng giá một cách dễ dàng, vì các máy bán kẹo cao su đều được thiết kế để nhận được một loại xu được định trước.

Chiến thuật shrinkflation

Họ cũng không thể thu nhỏ viên kẹo được, vì máy bán không thể hoạt động ổn định nếu họ làm vậy. Thay vào đó, họ khoét rỗng phần trong của viên kẹo. Thay vì đường, những đứa trẻ được nhai không khí.

Brim Dark Decaf Coffee đề ra một biến thể của chiêu trò này bằng cách sử dụng một quy trình “thổi phồng” độc quyền để làm nở những hạt cà phê của họ, cho phép họ đổ đầy một lọ 13 ounce bằng một lượng cà phê vốn chỉ nặng 11.5 ounce. Công ty này cam đoan quy trình hóa học này làm cho cà phê của họ đậm đà hơn với lượng hạt nhỏ hơn.

Các chiêu trò

Đôi khi bớt xén sản phẩm đi kèm với sự hấp dẫn về mặt cảm tính. Cỡ sản phẩm nhỏ hơn không chỉ là nhỏ hơn, nó còn cung cấp ít calo hơn. Bao bì nhỏ hơn được quảng cáo là thân thiện với môi trường.

Ví dụ một thanh chocolate nặng 10 ounce có giá bán lẻ 75 cent giờ được bán với gói 15 ounce nhưng lại có giá 1.25 dollar. Những chiêu trò này gắn liền với shrinkflation. Chiến thuật này tận dụng sự khó chịu của người tiêu dùng tới hành vi thu nhỏ mặt hàng, mặc dù chúng có cùng một kết quả.

Một số bang đã đẩy lùi xu hướng này bằng cách yêu cầu các cửa hàng tạp hóa liệt kê giá thành mỗi đơn vị sản phẩm trên các bao bì. Một số cửa hàng chủ động thực hiện quy định này, vì họ tin rằng đây là cách họ có thể thuyết phục khách hàng rằng họ quan tâm tới lợi ích của khách hàng.

Nhiều hệ thống liệt kê giá thành trên đơn vị này vẫn sống sót qua 2021. Nhưng shrinkflation cũng vậy. Trong năm vừa qua, càng ngày càng có nhiều những báo cáo về những chiêu trò ăn bớt; của các nhà sản xuất, từ lớp giấy vệ sinh tới khẩu phần đồ ăn cho mèo. Những báo cáo này đặc biệt nhiều trong những tuần vừa qua. Nếu xu hướng này tiếp tục, chúng ta cần phải thận trọng. Đây có thể là tín hiệu một cơn lạm phát, lâu nay vẫn âm ỉ, sắp sửa bùng nổ.

Tình trạng ngày nay

Trên toàn thế giới, các gói thực phẩm đang thu hẹp. Một nghiên cứu gần đây của Vương quốc Anh cho thấy có gần 3.000 sản phẩm thực phẩm có thể được tìm thấy trong một cửa hàng tạp hóa điển hình đã bị thu hẹp kể từ năm 2012. Điều này đến vào thời điểm mà lạm phát thực phẩm hàng năm đạt mức cao tới sáu phần trăm. Và vì vậy mọi người đã trả nhiều tiền hơn cho ít hơn và ngành công nghiệp thực phẩm bị buộc tội lừa gạt người tiêu dùng.

thực trạng

Những con số tương tự đang ra khỏi thị trường Mỹ. Nhiều nhà sản xuất thực phẩm Mỹ cũng đã thừa nhận thu hẹp các gói để duy trì giá ở mức cạnh tranh. Nhiều sản phẩm trong số này vào thị trường Canada. Dựa trên những gì đang diễn ra ở Mỹ và Châu Âu. Chúng tôi có thể ước tính rằng bất cứ nơi nào từ 15 đến 20%; tất cả các sản phẩm thực phẩm đóng gói đã bị thu hẹp trong năm năm qua. Nếu không muốn nói là nhiều hơn.

Shrinkflation gần như là tiêu chuẩn trong những ngày này, nhưng người tiêu dùng bắt đầu thấy khó chịu. Tuy nhiên, các công ty thực phẩm không thực sự gây hiểu lầm cho công chúng. Thông tin trọng lượng và khối lượng có thể dễ dàng được tìm thấy trên bất kỳ gói có nhãn. Thói quen làm cho chúng ta tin rằng chúng ta đang mua thứ tương tự; khi chúng ta phóng to vào một hằng số thúc đẩy hành vi của chúng ta khi mua sắm: Giá cả.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *